Chương 10. THÍ NGHIỆM TÂY TẠNG

Thiết bị Cơ-rơ I-un ở trên đỉnh một bình sơn nguyên chỉ cách đài quan sát Tây-tạng của Hội đồng du hành vũ trụ có một ki-lô-mét. Độ cao bốn nghìn mét khiến cho không một thứ cây thân gỗ nào tồn tại được ở đây, ngoài những cây mang từ Hỏa-tinh về: loại cây màu xanh đen, không lá, cành cong về phía đỉnh. Cỏ màu vàng nhạt trong thung lũng nghiêng theo chiều gió, còn những cây mang về từ thế giới xa lạ và mềm dẻo như thép vẫn đứng phăng phắc. Mảnh vỡ của các khối đá lớn sụt lở chảy thành sông trên các sườn núi. Những cánh đồng tuyết, những vệt tuyết và dải tuyết ngời lên một màu trắng đặc biệt của tuyết sạch tinh trên núi dưới bầu trời lấp lánh hào quang.

Sau những mảng tường còn sót lại bằng di-ô-rit (đó là những di tích đổ nát của một tu viện đã được xây dựng ở độ cao này với tinh thần táo bạo đáng ngạc nhiên), một cái tháp hình ống bằng thép vươn cao, đỡ hai vòng cung chạm lộng. Một đường xoắn ốc khổng lồ bằng đồng thiếc bê-ri-li, sáng lấp lánh, lốm đốm những điểm tiếp xúc trắng lóa bằng rê-ni[64] gắn ở trên những vòng cung, quay miệng loe hình pa-ra-bôn nghiêng về phía bầu trời. Một đường xoắn thứ hai kề sát vào đường xoắn ốc thứ nhất, nhưng mở về phía đất, bọc lấy tâm hình nón lớn bằng hợp kim bo-ra-dôn màu lục nhạt. Những nhánh của các ống dẫn năng lượng có tiết diện rộng sáu mét chạy vào đây. Những cây cột có vòng định hướng chạy ngang qua thung lũng: đây chính là nhánh rẽ tạm thời của đường dẫn chính chạy vào đài quan sát, nơi nhận năng lượng của tất cả các trạm trên hành tinh trong thời gian phát tin. Ren Bô-dơ dùng những ngón tay bới mái tóc bù xù, thích thú ngắm những thay đổi trong thiết bị trước kia.

Công trình được lắp ráp trong thời hạn ngắn phi thường, bằng lực lượng của những người tình nguyện. Khó nhất là làm những đường hào sâu trong đá núi rắn ghê gớm mà không đưa đến đây những máy đào cỡ lớn. Nhưng bây giờ khó khăn ấy cũng qua rồi. Những người tình nguyện đương nhiên là mong đợi được xem công cuộc thí nghiệm vĩ đại cho bõ những ngày vất vả. Họ chọn một sườn núi thoai thoải ở phía Bắc đài quan sát để dựng lều. Chỗ này cách thiết bị khá xa.

Mơ-ven Ma-xơ, người nắm trong tay mọi liên hệ của vũ trụ, ngồi trên tảng đá lạnh đối diện với nhà vật lý. Anh hơi co ro và kể những tin mới của Vành-khuyên. Gần đây, vệ tinh 57 được dùng để liên lạc với các con tàu liên sao và tàu liên hành tinh và không việc nào cho Vành-khuyên. Mơ-ven Ma-xơ cho biết về cái chết của Vơ-líc Ô-dơ Đi-dơ gần sao E và nhà vật lý mệt mỏi linh hoạt hẳn lên.

— Cường độ hút cực đại ở sao E dẫn tới sự nung nóng ghê gớm của quá trình phát triển của thiên thể này. Kết quả là ta được một ngôi sao khổng lồ màu tím có sức mạnh ghê gớm, chống được sức hút hết sức lớn. Ngôi sao này không còn phần đỏ của quang phổ nữa: bất chấp công suất của trường hấp dẫn, các sóng ánh sáng không dài ra, mà ngắn lại.

— Chúng trở thành các sóng tím và sóng tử ngoại — Mơ-ven Ma-xơ đồng ý.

— Không phải chỉ có thế mà thôi. Quá trình còn đi xa hơn. Các lượng tử càng mạnh, cuối cùng, trường-không bị khắc phục và kết quả là tạo thành vùng phản không gian, mặt thứ hai của sự vận động của vật chất. Ở Trái đất chúng ta không biết được mặt đó, vì quy mô của chúng ta quá nhỏ. Chúng ta không thể đạt đến một cái gì tương tự, dù có đốt hết hy-đrô của đại dương trên Trái đất đi nữa.

Mơ-ven Ma-xơ nhẩm tính chớp nhoáng trong óc: — Mười lăm triệu tỷ tấn nước chuyển thành năng lượng của chu trình hy-đrô theo nguyên tắc tương đối khối lượng — năng lượng thì tính sơ sơ ra là một nghìn tỷ tấn năng lượng. Mặt trời trong một phút cho hai trăm bốn mươi triệu tấn, vậy đó là toàn bộ bức xạ của Mặt trời trong mười năm!

Ren Bô-dơ mỉm cười hài lòng.

— Còn ngôi sao xanh khổng lồ thì sẽ cho bao nhiêu năng lượng?

— Tôi không ước tính được. Nhưng anh thử nghĩ xem. Trong đám mây Ma-gien-lăng Lớn có tinh đoàn NGK 1910 gần tinh vân Ta-ran-tun… xin lỗi, tôi không quen dùng tên và ký hiệu cổ của các ngôi sao.

— Chẳng có gì quan trọng!

— Tinh vân Ta-ran-tun sáng đến nỗi nếu như nó ở vị trí tinh vân Sao-cây mà mọi người đều biết thì nó sẽ tỏa sáng như trăng rằm. Trong tinh đoàn 1910 mà đường kính chỉ tới bảy mươi pác-xếc, có không dưới một trăm ngôi sao khổng lồ. Ở đây có ngôi sao đôi khổng lồ ES màu xanh của chòm Kim Ngưu với những vệt hy-đrô sáng rực trong quang phổ và những vệt tối ở mép tím. Nó to hơn quỹ đạo của Trái đất, độ sáng bằng nửa triệu Mặt trời của chúng ta!

Anh muốn nói một ngôi sao chính như thế chăng? Cũng trong tinh đoàn ấy còn có những ngôi sao lớn hơn, đường kính bằng đường kính quỹ đạo Mộc-tinh, nhưng chúng vẫn còn đang nóng lên sau khi đạt tới trạng thái E.

— Thôi, mặc kệ những ngôi sao khổng lồ. Hàng nghìn năm nay, người ta vẫn nhìn những tinh vân hình Vành-khuyên trong chòm Bảo-bình, chòm Đại-hùng và chòm Thiên-cầm mà không hiểu rằng trước mắt họ là những trường trung hòa, trường hấp dẫn-không, một trạng thái chuyển tiếp giữa hấp dẫn và phản hấp dẫn theo định luật rê-pa-gu-li-um. Điều bí ẩn của không gian-không chính là ở đấy…

Ren Bô-dơ chồm dậy khỏi ngưỡng cửa của hầm điều khiển làm bằng những khối đá lớn bọc silicat.

— Tôi nghĩ đủ rồi. Chúng ta bắt đầu thôi!

Tim Mơ-ven Ma-xơ đập thình thịch, cổ học tắc lại vì xúc động. Anh thở sâu và ngắt quãng. Ren Bô-dơ vẫn bình tĩnh, duy có ánh mắt long sòng sọc của anh biểu lộ sự tập trung tư tưởng và ý chí của một người sắp bắt tay vào một công việc nguy hiểm.

Mơ-ven Ma-xơ xiết chặt bàn tay nhỏ nhắn, rắn chắc của Ren Bô-dơ trong bàn tay to lớn của mình. Một cái gật đầu, và bóng dáng của chủ nhiệm các trạm liên lạc bên ngoài Trái đất đã xuất hiện trên con đường xuống núi dẫn về phía đài quan sát. Gió lạnh, gào lên dữ tợn, ùa ra từ những khối núi đóng băng khổng lồ đứng cạnh thung lũng. Toàn thân Mơ-ven Ma-xơ run lên, bất giác anh rảo bước, mặc dù anh đã đi khá nhanh và không có việc gì phải vội vàng: thí nghiệm bắt đầu sau mặt trời lặn.

Mơ-ven Ma-xơ liên hệ thành công với vệ tinh 57 bằng ra-đi-ô có dải sóng Mặt trăng.

Những bộ phản xạ và định hướng đặt trên trạm đã xác định vị trí của Đỗ-quyên ép-xi-lon trong thời gian mấy phút mà vệ tinh chuyển động từ 33 độ vĩ bắc đến cực Nam, vào thời gian có thể nhìn thấy ngôi sao từ phía quỹ đạo của nó.

Mơ-ven Ma-xơ ngồi vào chỗ bên bàn điều khiển, trong căn phòng dưới đất, rất giống căn phòng ở đài quan sát Địa-trung-hải.

Vừa xem lại đến lần thứ một nghìn những tờ ghi các số liệu về hành tinh của Đỗ-quyên ép- xi-lon, Mơ-ven Ma-xơ vừa kiểm tra lại một cách có phương pháp quỹ đạo đã tính sẵn của hành tinh và liên hệ với vệ tinh, giao hẹn rằng vào lúc đóng mạch của trường, những người quan sát ở vệ tinh 57 sẽ đổi hướng rất chậm theo một cung lớn gấp bốn lần thị sai của ngôi sao.



Thời gian kéo dài chậm chạp. Mơ-ven Ma-xơ không thể nào từ bỏ những ý nghĩ về Bét Lon, nhà toán học tội lỗi. Trên màn ảnh của máy đàm thoại truyền hình nổi, Ren Bô-dơ hiện lên bên bàn điều khiển của thiết bị thí nghiệm. Mái tóc cứng của anh lởm chởm hơn ngày thường.

Các điều độ viên của các trạm nạp năng lượng cho biết đã sẵn sàng, Mơ-ven Ma-xơ nắm lấy các cần điều khiển, nhưng một động tác của Ren Bô-dơ trên màn ảnh làm anh dừng lại.

— Cần báo trước cho trạm dự trữ Q ở lục địa Nam cực. Năng lượng hiện có vẫn chưa đủ.

— Tôi báo rồi, trạm đã sẵn sàng.

Nhà vật lý suy nghĩ mấy giây nữa.

— Trên bán đảo Tsu-cốt-ca và La-bra-đô đã xây dựng những trạm năng lượng F. Nên đề nghị họ tham gia vào lúc đảo ngược trường: tôi sợ rằng máy chưa được hoàn hảo…

— Tôi làm việc đó rồi…

Ren Bô-dơ hớn hở và khoát tay ra hiệu.

Một cột năng lượng khổng lồ lên tới vệ tinh 57. Trên màn ảnh bán cầu của đài quan sát hiện lên những khuôn mặt trẻ trung, phấn chấn của những người quan sát.

Mơ-ven Ma-xơ chào mừng những người dũng cảm và kiểm tra cột năng lượng có theo khớp vệ tinh hay không. Rồi anh chuyển công suất sang thiết bị của Ren Bô-dơ. Đầu nhà vật lý biến mất khỏi màn ảnh.

Kim của các máy chỉ thị lưu lượng công suất nghiêng về phía phải, cho biết tích tụ năng lượng không ngừng tăng lên. Các tín hiệu mỗi lúc một sáng hơn và trắng ra. Ren Bô-dơ vừa đóng mạch cái bức xạ trường, cái nọ tiếp cái kia, thì kim của các máy chỉ mức nạp đầy đột ngột tụt ngay xuống vạch không. Tiếng chuông nấc lên từng hồi từ thiết bị thí nghiệm khiến Mơ-ven Ma-xơ giật mình. Anh biết mình phải làm gì. Một cái gạt tay quay, và năng lượng ào ạt như lốc của trạm Q tràn vào những con mắt sắp tắt của các khí cụ, làm cho những chiếc kim đang tụt xuống hoạt động lại. Nhưng Ren Bô-dơ, vừa đóng máy đảo toàn bộ thì những chiếc kim ấy gần như nhảy về số không. Gần như theo bản năng, Mơ-ven Ma-xơ lập tức đóng mạch thêm cả hai trạm F.

Anh có cảm giác rằng các khí cụ đã tắt, một thứ ánh sáng nhợt nhạt lạ kỳ tràn ngập trong phòng. Các âm thanh ngưng bặt. Một giây sau, bóng tối của cái chết đã lướt qua ý thức của chủ nhiệm các trạm liên lạc ngoài Trái đất, làm cho các cảm giác mờ đi, Mơ-ven Ma-xơ đấu tranh với trạng thái choáng váng buồn nôn, hai tay nắm chặt lấy bàn điều khiển, nức nở vì phải gắng sức, và bị đau kinh khủng ở cột sống. Ánh sáng nhợt nhạt sáng rõ hơn ở một phía căn buồng ngầm dưới đất, còn ở phía kia thì Mơ-ven Ma-xơ không thể xác định được hay đã quên đi. Có lẽ là ở phía màn ảnh hay phía thiết bị của Ren Bô-dơ.

Đột nhiên, một tấm rèm lay động dường như rách toạc ra, và Mơ-ven Ma-xơ nghe thấy tiếng sóng vỗ rõ mồn một. Một mùi gì không thể diễn tả và ghi nhớ nổi xộc vào hai lỗi mũi mở rộng của anh.Tấm màn che bị dồn về bên trái, còn ở góc đối diện, tấm màn màu xám xịt vẫn lay động như trước. Những trái núi cao màu đồng có rừng cây màu ngọc lam viền xung quanh hiện rõ lạ thường, còn những con sóng của các biển tím vỗ rào rạt ngay cạnh chân Mơ-ven Ma-xơ. Tấm màn dịch về phía bên trái hơn nữa, và anh thấy điều mà anh hằng mơ ước. Một phụ nữ da đỏ ngồi ở khoang cầu thang trên cùng, bên cái bàn đá trắng và chống khuỷu tay lên mặt bàn nhẵn bóng, nhìn ra đại dương. Bất đồ chị nhìn thấy anh, đôi mắt to mở rộng của chị đầy vẻ ngạc nhiên và hân hoan. Chị đứng lên, vươn thẳng người vui vẻ duyên dáng tuyệt diệu, và chìa cho anh bàn tay mở rộng. Ngực chị thở gấp và trong giây lát mê sảng ấy. Mơ-ven Ma-xơ nhớ tới Tsa-ra Nan-đi.

— Op-pha an-li co-rơ!

Tiếng nói du dương, êm ái, mạnh mẽ đột nhập vào tim Mơ-ven Ma-xơ. Anh mở miệng toan trả lời nhưng một ngọn lửa màu lục bừng lên ở chỗ hình ảnh mà anh nhìn thấy, tiếng rít kinh khủng làm rung chuyển căn phòng. Anh ngất đi, cảm thấy có một sức mạnh mềm mại, không thể cưỡng nổi gập anh làm ba, quay anh như quay rô-to tua-bin, và cuối cùng, ép anh bẹp dí vào các vật gì rắn… Ý nghĩ cuối cùng của Mơ-ven Ma-xơ là nghĩ về số phận của trạm và của Ren Bô-dơ.

Các cộng tác viên của đài quan sát và những người xây dựng ở trên sườn núi cách đấy một quãng chẳng thấy được gì mấy. Trên bầu trời Tây-tạng sâu thăm thẳm, có cái gì vụt lóe lên, át cả ánh sao. Một sức mạnh vô hình từ trên trời ụp xuống trái núi đặt thiết bị thí nghiệm. Ở đó nó có hình dạng một trận lốc cuốn đá bay tung lên. Một vệt xoáy hình phễu đen ngòm, như vệt xoáy phóng ra từ cỗ súng thủy lực khổng lồ, băng về phía tòa nhà của đài quan sát, vọt lên cao rồi quay trở lại và lại đập vào trái núi có thiết bị, phá tan tành mọi công trình xây dựng và quét sạch những mảnh vỡ. Lát sau tất cả đều im ắng. Trong bầu không khí đầy bụi, chỉ còn mùi đá nóng với mùi cháy khét lẫn với một mùi thơm lạ lùng, giống mùi thơm trên những bờ biển nhiệt đới đang mùa hoa nở.

Ở chỗ xảy ra tai họa, mọi người thấy một đường rãnh rộng chạy trên thung lũng giữa núi và đài quan sát, rìa rãnh bị chảy ra, còn sườn núi quay về phía thung lũng bị phá băng đi.

Tòa nhà của đài quan sát còn nguyên vẹn. Đường rãnh chạy đến bức tường phía đông nam, phá hủy những buồng biến thế tiếp giáp với bức tường đó, rồi đâm vào cái mái vòm của căn phòng ngầm dưới đất. Cái mái này bọc một lớp đá ba-dan nóng chảy dày bốn mét. Đá ba- dan vẹt đi, như bị đưa vào cỗ máy đánh bóng khổng lồ. Nhưng một phần của lớp đá đó còn nguyên, vì thế Mơ-ven Ma-xơ thoát chết và căn phòng dưới đất không bị phá hủy hoàn toàn.

Một con suối bạc ngưng tụ trong hõm đất: đấy là những bộ phận bảo vệ của trạm thu năng lượng đã bị chảy ra.

Lát sau, người ta đã khôi phục được những dây cáp của mạng thắp sáng bị hỏng. Dưới ánh sáng của cây đèn chiếu ở đường vào cổng, mọi người thấy cảnh tượng kinh dị: kim loại của các kết cấu thí nghiệm được phết thành một lớp mỏng dọc theo đường rãnh, vì thế đường rãnh lấp lánh như mạ crôm. Một mảnh đường xoắn ốc bằng đồng thiếc cắm vào cái vách đứng của sườn núi bị bẹt đi như cắt bằng dao. Đá chảy nhoẹt ra thành lớp kính trong, như xi bị chảy ra dưới con dấu nóng. Những vòng xoắn ốc bằng kim loại màu đỏ nhạt với những răng tiếp xúc bằng rê-ni trắng cắm vào đá; dưới ánh sáng điện, chúng lấp lánh như bông hoa in vào men sứ. Nhìn cái vật trang sức đường kính hai trăm mét ấy, ta cảm thấy sợ hãi trước cái sức mạnh vô hình hoạt động ở đây.

Khi đã dọn sạch những mảnh vỡ chồng chất trên lối đi dẫn xuống căn buồng ngầm dưới đất, người ta tìm thấy Mơ-ven Ma-xơ đang quỳ gối, gục đầu vào bậc đá dưới cùng. Có lẽ, trong những lúc bừng tỉnh lại, chủ nhiệm các Trạm liên lạc ngoài Trái đất đã cố gắng tìm cách thoát ra. Trong số những người tình nguyện, có những người là thầy thuốc. Cơ thể cường tráng của chàng trai gốc Phi đã thắng được những vết thương nhờ những thứ thuốc rất kiến hiệu, Mơ-ven Ma-xơ đứng dậy, run rẩy và lảo đảo, có người đỡ hai bên.

— Ren Bô-dơ thế nào?

Những người vây quanh nhà bác học trở nên buồn rầu. Chủ nhiệm đài quan sát trả lời, giọng khàn khàn: — Ren Bô-dơ bị tàn phế nặng, chắc không sống được lâu…

— Anh ấy hiện ở đâu?

Tìm thấy anh ấy ở bên kia núi, mé sường phía đông. Chắc hẳn anh ấy bị ném ra khỏi nhà.

Trên đỉnh núi không còn gì hết… ngay cả những đống đổ nát cũng bị quét sạch — Và Ren Bô-dơ nằm ngay ở đấy?

— Không thể động đến anh ấy, xương dập nát, xương sườn gẫy…

— Sao?

— Bụng bị toạc ra, ruột thòi ra ngoài…

Hai chân Mơ-ven Ma-xơ bủn rủn, anh lật bật ôm quàng lấy cổ những người đang đỡ anh.

Nhưng ý chí và lý trí đã thắng.

— Phải làm mọi cách cứu cho được Ren Bô-dơ! Anh ấy là một nhà bác học hết sức vĩ đại!…

— Chúng tôi biết. Ở đây có năm bác sĩ. Họ đã dựng một lều giải phẫu vô trùng trùm lên anh ấy. Hai người tình nguyện cho máu. Ti-ra-tơ-rôn, tim và gan nhân tạo đã hoạt động.

Thế thì đưa tôi vào buồng đàm thoại. Liên lạc với mạng truyền tin thế giới và gọi Trung tâm thông tin của vành đai phương Bắc. Vệ tinh 57 thế nào?

— Đã gọi rồi. Nó im tiếng.

— Các viễn kính còn nguyên chứ?

— Còn nguyên vẹn.

— Hãy dùng viễn kính tìm vệ tinh và xem xét kỹ qua máy đảo ảnh có độ phóng đại lớn…

Người trực đêm của trung tâm thông tin phương Bắc nhìn thấy trên màn ảnh một khuôn mặt lõa máu, với cặp mắt sáng rực như trong cơn sốt. Anh nhìn thật kỹ mới nhận ra chủ nhiệm của các chủ nhiệm trạm liên lạc ngoài Trái đất, người mà cả hành tinh đều biết.

— Tôi cần gặp chủ tịch Hội đồng du hành vũ trụ Gơ-rôm Oóc-mơ và bác sĩ tinh thần thần kinh Ép-đa Nan.

Người trực gật đầu và bắt đầu điều khiển các nút và các vec-ne của máy nhớ. Lát sau đã được trả lời.

— Gơ-rôm Oóc-mơ đang chuẩn bị tài liệu và ngủ đêm trong nhà ở Hội đồng. Gọi Hội đồng chứ?

— Gọi đi. Thế còn Ép-đa Nan.

— Chị ấy đang ở trường 410 tại Iếc-lăng. Nếu cần, tôi sẽ thử gọi chị ấy — người trực nhìn sơ đồ — mời chị ấy đến trạm đàm thoại 5654 XP.

— Rất gần! Đây là chuyện sinh tử!

— Người trực rời khỏi những sơ đồ của mình.

— Đã xảy ra tai họa gì chăng?

— Một tai họa lớn!

— Tôi sẽ trao việc trực cho người phụ tá của tôi và tôi sẽ đích thân giải quyết mọi việc của anh. Xin chờ một lát.

Mơ-ven Ma-xơ buông mình xuống chiếc ghế bành mà người đã đẩy đến cạnh anh, cố tập trung ý nghĩ và sức lực. Chủ nhiệm đài quan sát chạy vào buồng.

— Vừa xác định xong vị trí của vệ tinh 57. Nó không còn nữa!

Mơ-ven Ma-xơ bật dậy, như không hề bị thương gì cả.

— Còn lại một mảnh ở phần trước: khu vực cảng để tiếp nhận các con tàu — Bản báo cáo tai ác tiếp tục — Nó vẫn bay theo quỹ đạo cũ. Có lẽ còn những mảnh nhỏ nữa, nhưng chưa phát hiện ra.

— Còn những người quan sát?

— Chắc chắn là chết cả rồi!

Mơ-ven Ma-xơ nắm chặt hai tay và gieo mình xuống ghế bành. Mấy phút im lặng khổ ải trôi qua. Màn ảnh lại sáng bừng lên.

Gơ-rôm Oóc-mơ ở bên máy của Nhà Hội đồng — Người trực nói và quay cần điều khiển.

Trên màn ảnh, hình một phòng lớn được chiếu sáng mờ mờ, và cái đầu đặc sắc mà ai nấy đều quen thuộc của Chủ tịch Hội đồng du hành vũ trụ hiện lên. Khuôn mặt lưỡi cày với cái mũi to, gồ, cặp mắt sâu dưới đôi lông mày châu vào nhau đầy vẻ hoài nghi, nét uốn lượn đượm ý dò hỏi của đôi môi mím chặt.

Trước cái nhìn của Gơ-rôm Oóc-mơ, Mơ-ven Ma-xơ cúi đầu xuống như một chú bé đã làm điều gì dại dột.

— Vệ tinh 57 vừa bị hủy diệt! — Mơ-ven Ma-xơ thú nhận và có cảm giác như anh lao xuống làn nước đen ngòm.

Gơ-rôm Oóc-mơ giật mình, mặt ông càng dài ra.

— Sao lại có thể như thế được?

Mơ-ven Ma-xơ thuật lại tất cả mọi việc một cách nhanh gọn và chính xác, không giấu diếm rằng đó là thí nghiệm bị cấm, không hề thương xót bản thân mình. Lông mày của Chủ tịch Hội đồng cau lại, xung quanh miệng nổi những nếp nhăn dài, nhưng cái nhìn vẫn bình tĩnh — Chờ một lát, tôi sẽ nói về việc cứu chữa Ren Bô-dơ. Anh có cho rằng Áp Nút…

— Ồ, được Áp Nút giúp thì còn gì bằng!

Màn ảnh mờ đi. Thời gian chờ đợi kéo dài. Mơ-ven Ma-xơ gắng hết sức tự chủ. Không sao, chóng thôi… Kìa, Gơ-rôm Oóc-mơ đây rồi!

— Tôi đã tìm thấy Áp Nút và cho tàu liên hành tinh đến đón. Anh ấy cần ít nhất là một giờ để chuẩn bị dụng cụ và chọn người giúp việc. Hai giờ nữa Áp Nút sẽ có mặt ở đài quan sát.

Bây giờ nói về anh: thí nghiệm thành công chứ?

Câu hỏi thật bất ngờ đối với Mơ-ven Ma-xơ. Chắc chắn là anh đã thấy Đỗ quyên ép-xi-lon.

Nhưng phải chăng đấy là cuộc gặp gỡ thực với thế giới xa xôi không thể nào tới được? Hay đấy là tác động tai nạn của thí nghiệm đối với cơ thể và của lòng mong muốn sôi nổi kết hợp với ảo giác rực rỡ? Liệu anh có thể tuyên bố với toàn thế giới rằng thí nghiệm đã thành công, rằng cần có những cố gắng, những hy sinh, những phí tổn mới để làm lại thí nghiệm, rằng con đường mà Ren Bô-dơ đã chọn là con đường thành công hơn con đường của người đi trước được không? Vì sợ gây nguy hiểm cho người khác, họ làm thí nghiệm chỉ hai người với nhau, những con người điên rồ. Còn Ren thấy gì, anh có thể kể lại những gì?… Nếu anh có thể kể lại được… nếu anh đã thấy!

Mơ-ven Ma-xơ càng tỏ ra thẳng thắn hơn.

— Tôi không có bằng chứng gì tỏ ra rằng thí nghiệm đã thành công. Tôi không biết Ren Bô- dơ đã cảm thấy gì…

Vẻ buồn rầu thành thực lộ rõ trên gương mặt Gơ-rôm Oóc-mơ. Một phút trước, gương mặt ấy chỉ tỏ vẻ chăm chú, bây giờ nó trở nên nghiêm khắc.

— Theo anh thì nên làm thế nào?

— Cho phép tôi lập tức giao lại trạm cho I-u-nhi An-tơ. Tôi không xứng đáng làm chủ nhiệm nữa. Tôi sẽ ở bên cạnh Ren Bô-dơ cho đến phút chót… — Mơ-ven Ma-xơ ngập ngừng và nói chữa lại: — cho đến khi giải phẫu xong. Rồi… sau đó tôi sẽ lánh ra đảo Lãng-quên cho đến khi xét xử… Tôi đã tự kết án tôi rồi!

— Có thể anh có lý. Nhưng có nhiều tình tiết tôi chưa hiểu rõ, vì vậy tôi chưa có ý kiến.

Hành động của anh sẽ được phân tích trong cuộc họp sắp tới của Hội đồng: theo anh thì ai là người có khả năng nhất thay thế chân anh, trước hết trong việc phục hồi vệ tinh?

— Tôi không thấy người nào đáng đề cử hơn Đa-rơ Vê-te.

Chủ tịch Hội đồng gật đầu đồng ý. Ông nhìn chằm chằm vào chàng trai người Phi một lát, toan nói thêm điều gì, nhưng rồi chỉ phác một cử chỉ từ biệt thầm lặng. Màn ảnh tắt, và tắt đúng lúc, vì đầu óc Mơ-ven Ma-xơ đã rối tung cả lên.

— Anh báo hộ cho Ép-đa Nan-anh thì thầm nói với chủ nhiệm đài quan sát đứng ở bên cạnh, rồi ngã xuống và ngất đi sau khi đã cố đứng lên mấy lần mà không được.

Tại đài quan sát Tây-tạng, mọi người đều chú ý đến một người nhỏ nhắn, mặt vàng, miệng luôn luôn nở nụ cười vui vẻ, cử chỉ và lời nói có uy quyền lạ thường. Những trợ lý cùng đến với ông vâng lệnh ông với vẻ vui sướng có lẽ giống như thái độ của những người lính trung thành đời xưa đi theo các tướng lĩnh vĩ đại của mình. Nhưng uy tín của người thầy không bóp nghẹt suy nghĩ và sáng kiến riêng của họ. Đây là một nhóm người cương nghị, đoàn kết lạ thường, xứng đáng đấu tranh với kẻ thù đáng sợ nhất và bất trị nhất của con người là cái chết.

Được biết là vẫn chưa nhận được lý lịch di truyền của Ren Bô-dơ. Áp-nut phẫn nộ kêu lên, nhưng ông yên tâm ngay khi người ta cho biết rằng chính Ép-đa Nan đang lập hồ sơ và sắp mang đến.

Chủ nhiệm đài quan sát dè dặt hỏi rằng lý lịch di truyền dùng để làm gì và tổ tiên xa xôi của Ren Bô-dơ có thể giúp gì cho anh. Áp Nút nheo mắt ranh mãnh, như sắp thổ lộ một điều thầm kín.

Cần biết chính xác cấu trúc di truyền của mỗi người để hiểu cấu tạo tâm lý của người đó và để làm công việc chẩn đoán trong lĩnh vực đó. Những tài liệu về các đặc điểm sinh lý thần kinh, về sức đề kháng của cơ thể, về tính miễn dịch, về tính nhạy cảm chọn lọc đối với các chấn thương, về sự dị ứng thuốc cũng không kém phần quan trọng. Việc chọn cách chữa không thể chính xác được nếu không biết cấu trúc di truyền và hoàn cảnh sống trước kia của tổ tiên. Chủ nhiệm muốn hỏi thêm gì nữa, nhưng Áp Nút ngăn lại: — Tôi trả lời để anh tự suy nghĩ thêm. Không còn thời giờ để suy nghĩ nhiều hơn nữa.

Chủ nhiệm lầm bầm biện bạch, nhưng nhà giải phẫu đã không nghe nữa.

Trên cái bãi nhỏ đã chuẩn bị sẵn ở chân núi, người ta dựng lên nhà giải phẫu lưu động, đưa nước, điện và không khí nén tới. Rất nhiều công nhân tranh nhau giúp đỡ, và căn nhà được dựng lên trong ba giờ. Trong số các thầy thuốc đã tham gia xây dựng thiết bị, những người phụ tá của Áp Nút chọn lấy mười lăm người để phục vụ cái bệnh viện giải phẫu đã được dựng lên một cách mau lẹ đến thế. Ren Bô-dơ được đưa vào dưới cái vòm bằng chất dẻo trong suốt, hoàn toàn vô trùng và có không khí vô trùng thổi vào qua những tấm lọc đặc biệt.

Áp Nút và bốn trợ lý của ông vào gian đầu tiên của nhà giải phẫu và ở đấy mấy tiếng đồng hồ, tắm những sóng sát trùng và không khí bão hòa chất bốc hơi phóng xạ khử độc, cho đến khi chính hơi thở của họ trở nên vô trùng. Trong thời gian ấy, cơ thể Ren Bô-dơ lạnh hẳn đi.

Khi đó công việc của họ bắt đầu, mau lẹ và đầy tự tin.

Xương gẫy và mạch đứt của nhà vật lý được nối lại bằng những vòng móc và những miếng lót bằng tan-ta-li không kích thích mô sống. Áp Nút tìm hiểu kỹ những thương tổn nội tạng.

Những khúc ruột và dạ dầy vỡ được tách khỏi những bộ phận đã chết, được khâu lại và đặt vào cái bình có chất lỏng BZ 14 làm mau lành vết thương và thích hợp với những đặc điểm thể chất của cơ thể. Sau đó Áp Nút bắt tay vào công việc khó khăn nhất. Từ vùng dưới sườn, ông lấy ra lá gan bị những mảnh xương sườn cắm vào và đã đen sạm lại. Trong lúc các trợ lý giữ lá gan lơ lửng, ông mổ xẻ một cách vững vàng kỳ lạ, và rút ra những sợi mảnh của các dây thần kinh tự động thuộc hệ giao cảm và phó giao cảm. Sự hư hại nhở nhặt nhất của một nhánh mỏng mảnh nhất cũng có thể dẫn tới những hủy hoại nặng nề không phương cứu vãn.

Bằng một động tác nhanh như chớp, nhà giải phẫu cắt tĩnh mạch cửa, nối mạch nhân tạo vào các đầu. Sau khi cũng làm như thế với các động mạch. Áp Nút đặt lá gan vào một bình riêng đựng chất lỏng BZ. Sau năm giờ giải phẫu, tất cả các cơ quan bị thương tổn của Ren Bô-dơ đều được đặt trong những bình riêng. Máu nhân tạo chảy trong mạch của cơ thể anh, do tim của chính người bị thương và một trái tim phụ — một máy tự động — bơm đi. Bây giờ có thể chờ cho các cơ quan đã lấy ra lành lặn. Áp Nút không thể thay lá gan bị thương tổn bằng lá gan khác giữ trong kho giải phẫu của hành tinh, vì muốn vậy, cần phải có những nghiên cứu bổ xung, mà tình trạng của người bệnh không cho phép chậm lấy một phút. Trong lúc chờ đợi kíp thay thế làm công việc khử trùng, một bác sĩ giải phẫu ở lại trực bên tấm thân nằm bẹp như cái xác bị mổ phanh.

Cửa ra của lớp rào bảo vệ xung quanh căn nhà giải phẫu bật tung ra, và Áp Nút xuất hiện, nheo mắt, vươn vai như con thú vừa tỉnh giấc, xung quanh là những người phụ việc toàn thân bê bết máu. Ép-đa Nan mệt mỏi và tái nhợt, đến gặp ông và đưa cho ông quyển gia hệ của Ren Bô-dơ, Áp Nút háo hức vồ lấy, xem qua và thở dài.

— Hình như mọi việc đều ổn. Ta đi nghỉ thôi.

— Nhưng… nếu anh ấy tỉnh dậy?

— Ta đi đi! Anh ta không thể tỉnh dậy được. Lẽ nào chúng tôi lại ngốc đến nỗi không dự liệu được điều đó sao?

— Cần phải chờ bao lâu?

— Bốn năm ngày. Nếu những điều xác định về sinh vật học là chính xác và những dự tính đểu đúng thì có thể sẽ giải phẫu lần nữa, đặt lại các cơ quan vào chỗ cũ. Sau đó sẽ hồi tỉnh…

— Bác sĩ có thể ở đây bao lâu?

— Mười ngày. Tai nạn xảy ra đúng vào kỳ nghỉ học. Tôi sẽ nhân cơ hội này để tham quan Tây-tạng, tôi chưa đến đấy lần nào. Số phận của tôi là sống ở chỗ đông người nhất, tức là ở vành đai dân cư.

Ép-đa Nan nhìn nhà giải phẫu với vẻ khâm phục. Áp Nút mỉm cười nhưng có vẻ bực dọc: — Chị nhìn tôi như thể trước kia người ta nhìn ảnh Chúa Trời vậy. Điều đó không xứng với những học trò thông thái nhất của tôi.

— Quả thực là tôi nhìn thầy bằng con mắt khác. Lần đầu tiên tính mạng của một con người mà tôi yêu mến nằm trong tay nhà giải phẫu, và tôi hiểu rõ cảm xúc của những người mà trong đời đã từng có liên quan với nghệ thuật của thầy… kiến thức hòa hợp với tài nghệ có một không hai!

— Được lắm! Cứ khâm phục đi, nếu chị thấy cần như thế. Còn tôi sẽ có đủ thời gian mổ cho nhà vật lý của chị chẳng những lần thứ hai, mà cả lần thứ ba nữa…

— Lần thứ ba thế nào kia? — Ép-đa Nan lo lắng, nhưng Áp Nút nheo mắt ranh mãnh, chỉ con đường hẹp từ đài quan sát chạy lên cao.

Mơ-ven Ma-xơ khập khiễng đi trên con đường đó, đầu rũ xuống.

— Kia lại có thêm một người tôn sùng nghệ thuật của tôi!… dù là bất đắc dĩ. Hãy nói chuyện với anh ấy, nếu chị không thể nghỉ ngơi được, còn tôi cẩn phải…

Nhà giải phẫu biến mất sau chỗ quả đồi nhô ra, nơi có căn nhà tạm thời của những nhân viên y tế đến đây làm việc. Từ xa, Ép-đa Nan đã nhận thấy chủ nhiệm các trạm liên lạc ngoài Trái đất gầy rộc đi và già hơn trước… Không, Mơ-ven Ma-xơ không còn phụ trách công việc gì nữa. Chị kể với anh chàng người Phi tất cả những gì Áp Nút cho chị biết, và anh thở dài nhẹ nhõm.

— Thế thì mười ngày nữa tôi sẽ đi!

— Anh làm như thế có đúng không, Mơ-ven? Tôi vẫn còn bàng hoàng, chưa nghĩ kỹ được về sự việc đã xảy ra, nhưng tôi có cảm giác rằng lỗi của anh không đến nỗi phải xử trí nặng như thế.

Mơ-ven Ma-xơ nhăn mặt đau đớn.

— Tôi say mê lý thuyết xuất sắc của Ren Bô-dơ. Tôi không có quyền đưa toàn bộ sức mạnh của Trái đất vào một thí nghiệm đầu tiên.

— Ren Bô-dơ đã chứng minh rằng dùng ít năng lượng thì cũng thử vô ích. — Ép-đa bác lại.

— Đúng thế, nhưng đáng lẽ nên làm những thí nghiệm gián tiếp. Vậy mà tôi đã nôn nóng đến vô lý và không muốn chờ đợi nhiều năm. Đừng phí lời, Hội đồng đã phê chuẩn quyết định của tôi, và Ban kiểm tra Danh dự và Quyền lợi sẽ không bác bỏ quyết định ấy.

— Chính tôi là một ủy viên Ban kiểm tra Danh dự và Quyền lợi.

— Ngoài chị ra, còn mười người nữa cơ mà. Việc của tôi liên quan đến cả hành tinh nên Ban kiểm tra miền Bắc và miền Nam sẽ tham gia giải quyết với các anh các chị, vậy tổng cộng là hai mươi mốt người, không kể cả chị..

Ép-đa Nan đặt tay lên vai anh chàng người Phi.

— Ta ngồi xuống đi, Mơ-ven, chân anh còn yếu. Anh có biết rằng khi những bác sĩ đầu tiên khám cho Ren Bô-dơ thì họ quyết định triệu tập hội chẩn về trường hợp tử vong hay không?

— Tôi biết. Còn thiếu hai người mới đủ số. Các bác sĩ vốn bảo thủ, mà theo điều lệ cũ thì phải đủ số hai mươi mốt người mới có quyền quyết định cho người bệnh được hưởng cái chết nhẹ nhàng.

— Cho đến nay chưa có ý định bãi bỏ điều lệ ấy.

— Mới đây thôi, cuộc hội chẩn xét định trường hợp tử vong có phải đủ sáu mươi bác sĩ kia!

— Đấy là tàn dư của sự e sợ tình trạng làm bậy. Chính vì sợ như thế mà thời xưa các thầy thuốc đã để người bệnh chịu những đau đớn vô ích trong thời gian dài, và những đau đớn vô ích trong thời gian dài, và những người thân của họ phải chịu đựng những nỗi đau khổ hết sức nặng nề về tinh thần, ngay cả khi không còn lối thoát nào nữa và cái chết có thể là một cái kết nhẹ nhàng và chóng vánh. Nhưng anh thấy đấy, truyền thống có thể có ích như thế nào: còn thiếu hai bác sĩ nữa và tôi có đủ thì giờ gọi Áp Nút… nhờ Gơ-rôm Oóc-mơ.

— Chính đó là điều tôi muốn nhắc chị. Cuộc hội chẩn về cái chết xã hội hiện thời mới chỉ có một người!

Mơ-ven Ma-xơ cầm tay Ép-đa và đưa lên môi. Chị cho phép anh thực hiện cử chỉ biểu lộ tình bạn lớn lao và thắm thiết ấy. Anh là một người cương nghị nhưng đau đớn về trách nhiệm tinh thần, và lúc này anh chỉ có một mình chị. Một mình chị… giá như thay cho chị là Tsa-ra thì sao? Không, muốn gặp Tsa-ra lúc này, anh cần có sự hào hứng về tinh thần mà anh chưa đủ sức. Mong rằng mọi việc cứ diễn ra bình thường cho đến khi Ren Bô-dơ bình phục và Hội đồng du hành vũ trụ họp bàn.

— Anh không biết Ren Bô-dơ sắp được giải phẫu lần thứ ba như thế nào ư? Ép-đa lái câu chuyện sang hướng khác.

Mơ-ven Ma-xơ nghĩ một lát, nhớ lại cuộc nói chuyện với Áp Nút.

— Bác sĩ muốn nhân dịp Ren Bô-dơ được giải phẫu để gột sạch en-tơ-rô-pi đã tích tụ lại trong cơ thể.

— Dùng liệu pháp truyền huyết thì sẽ chậm và khó khăn, nhưng nếu kết hợp với công trình giải phẫu cơ bản như thế thì sẽ thu được kết quả tương đối nhanh hơn và chắc chắn hơn.

Ép-đa Nan nhớ lại tất cả những gì chị biết về cơ sở của sự sống lâu: loại trừ en-tơ-rô-pi khỏi cơ thể. Nguồn gốc cá, thằn lằn của của con người đã để lại trong cơ thể người những lớp cấu tạo sinh lý mâu thuẫn nhau và mỗi lớp đều có những đặc điểm riêng trong việc tạo thành những cặn bã en-tơ-rô-pi của hoạt động sống. Những cấu trúc cổ xưa ấy đã được nghiên cứu hàng nghìn năm — chúng là ổ gây bệnh và làm cho người ta già đi. Bây giờ chúng có thể tẩy trừ bằng năng lượng: rửa cơ thể bằng hóa chất và bằng tia phóng xạ, dùng sóng để kích thích một cơ thể đang già đi.

Trong thiên nhiên, sự giải thoát của các sinh vật khỏi lượng en-tơ-rô-pi ngày càng tăng có nghĩa là cần phải có sự sinh sản do các cá thể dị chủng phát sinh từ những nơi khác nhau, tức là từ những tuyến di truyền khác nhau. Sự pha trộn đó của tính di truyền trong quá trình đấu tranh với en-tơ-rô-pi và sự khai thác những sức mạnh mới từ thế giới xung quanh là một câu đố phức tạp nhất mà khoa học đề ra đã hàng nghìn năm nay, khiến các nhà sinh vật học, vật lý học, cổ sinh học và toán học phải nát óc tìm câu giải đáp. Nhưng công sức đổ ra không uổng phí: tuổi thọ có thể có của đời người đã tăng lên ngót hai trăm năm, mà cái chính là tuổi già kiệt quệ, héo hon đã không còn nữa.

Mơ-ven Ma-xơ đoán được ý nghĩ của người thầy thuốc tâm thần.

— Tôi nghĩ về mối mâu thuẫn mới vô cùng lớn lao của cuộc sống chúng ta — Anh nói chậm rãi — Một nền y học sinh vật hùng hậu làm cho cơ thể tràn đầy những sức mạnh mới, và hoạt động ngay càng ráo riết của não làm cho cơ thể bị hao mòn nhanh chóng. Mọi việc phức tạp biết bao trong cái quy luật của thế giới chúng ta.

— Đúng thế, chính bởi vậy chúng ta mới tạm kìm hãm sự phát triển của hệ thống tín hiệu thứ ba — Ép-đa Nan đồng ý — Việc đọc tư tưởng làm dễ dàng dùng rất nhiều cho sự tiếp xúc giữa các cá nhân với nhau, nhưng tốn nhiều công sức và làm suy yếu các trung tâm ức chế.

Hiện tượng sau là nguy hiểm nhất..

Dẫu sao thì phần thì phần lớn số người lao động thực sự họ chỉ sống được một nửa tuổi thọ đang có, vì thần kinh quá căng thẳng. Theo tôi hiểu, y học không thể đấu tranh với tình trạng đó được chỉ có cách cấm làm việc. Nhưng ai là người chịu bỏ công việc để được sống lâu thêm?

— Chẳng ai chịu làm thế, vì người ta chỉ tham sống sợ chết khi cuộc sống đó là cô độc, sống trong tâm trạng buồn rầu mong đợi những niềm vui sống chưa từng được trải qua — Ép-đa Nan nói với vẻ trầm ngâm, bất giác nghĩ tới đảo Lãng-quên: ở đấy có lẽ người ta sống lâu hơn.

Mơ-ven Ma-xơ lại hiểu những ý nghĩ không nói ra của chị, và anh nghiêm trang đề nghị quay trở lại đài quan sát để nghỉ. Ép-đa Nan nghe theo.


… Hai tháng sau, Ép-đa Nan tìm được Tsa-ra Nan-đi ở phòng trên cùng của Cung thông tin. Căn phòng này có những cột cao, nom giống như ngôi đền thờ kiến trúc gô-tích. Những tia nắng xiên xiên từ trên cao rọi xuống, giao chéo nhau ở lưng chừng chiều cao căn phòng, tạo nên vầng hào quang ở bên trên và cảnh tranh tối tranh sáng ở bên dưới.

Cô gái đứng tựa vào một cây cột, hai tay chắp sau lưng và chân bắt chéo. Cũng như mọi lần, Ép-đa Nan không thể không thích thú về cách trang phục giản dị của Tsa-ra: chị mặc chiếc áo ngắn màu xám và xanh da trời, cổ mở rất rộng.

Tsa-ra phóng tầm mắt qua vai nhìn Ép-đa đang đến gần, và đôi mắt buồn rầu của chị trở nên linh hoạt.

— Chị ở đây làm gì. Tsa-ra? Tôi cứ tưởng chị đang chuẩn bị làm cho chúng tôi sửng sốt về một điệu vũ mới, vậy mà chị lại bị môn địa lý lôi cuốn.

— Thời kỳ của những điệu vũ đã qua rồi — Tsa-ra nói một cách nghiêm chỉnh — Tôi chọn một công việc trong phạm vi hoạt động mà tôi quen thuộc. Có một chỗ làm tại nhà máy da nhân tạo trong các biển nội địa ở Xe-lep và tại trạm gây những giống cây lâu năm trong vùng hoang mạc trước kia ở A-la-ca-ma. Hồi làm việc ở Đại-tây-dương, tôi cảm thấy thích thú.

Thật là tươi sáng, và sức mạnh của biển, sự hòa hợp vô tư với biển, trò đua tài khéo léo với những làn sóng hùng mạnh lúc nào cũng ở ngay bên cạnh, chỉ cần ta làm xong công việc…

vui sướng biết bao!

— Tôi cũng thế, hễ khi nào buồn phiền là tôi lại nhớ tới thời kỳ tôi làm ở nhà an dưỡng tâm lý Tân-tây-lan. Hồi tôi mới bắt đầu đi làm và chỉ là một cô y tá rất trẻ. Còn Ren Bô-dơ thì giờ đây, sau khi bị thương nặng ghê gớm, anh ấy nói rằng thời kỳ anh ấy sung sướng nhất là thời kỳ làm người điều chỉnh máy bay hình đinh vít. Nhưng hẳn chị cũng hiểu rằng đấy là sự yếu đuối, Tsa-ra ạ! Chị mệt mỏi vì hoạt động quá căng thẳng để đứng vững ở trình độ sáng tạo cao mà chị đã đạt được, với tư cách là một nghệ sĩ chân chính. Tình trạng đó sẽ còn trầm trọng hơn nữa. Khi cơ thể chị không còn là nguồn dự trữ năng lượng sống ở mức tuyệt diệu như bây giờ. Nhưng trong lúc còn đủ sinh lực, chị hãy đem nghệ thuật và vẻ đẹp của chị làm cho chúng tôi vui sướng.

— Chị chưa biết điều đó có ý nghĩa như thế nào đối với tôi đâu, Ép-đa ạ. Mỗi lần chuẩn bị một điệu múa là một lần tìm kiếm sung sướng. Tôi có ý thức rằng một lần nữa, mọi người sẽ được hưởng một cái gì tốt đẹp khiến cho họ vui sướng, khiến họ xúc động đến tận đáy lòng.

Tôi sống bằng ý nghĩ ấy. Đến lúc ý định được đem ra thực hiện, tôi hoàn toàn thả mình và theo sự bay bổng của niềm say mê nồng nhiệt và điên rồ… Chắc chắn điều đó được truyền sang người xem, vì thế điệu vũ có tác động mạnh mẽ. Tôi hiến dâng cả tâm hồn và tài năng của tôi cho các bạn — …

— Vậy thì sao? Sau đó là sự chán nản đột ngột phải không?

— Đúng. Tôi giống như bài ca đã bay lên và hòa tan vào không khí. Tôi không tạo nên một cái gì in lại dấu vết trong tư tưởng.

— Có một điều quan trọng hơn nhiều: phần đóng góp của chị làm cho tâm hồn con người phong phú thêm lên.

— Điều đó rất vô hình và không bền: tôi muốn nói chính bản thân tôi!

— Chị chưa bao giờ yêu ư, Tsa-ra?

Cô gái cụp hai hàng mi xuống.

— Có thể tin được không? Chị trả lời bằng cách hỏi lại.

Ép-đa Nan lắc đầu.

— Tôi nói về một tình cảm lớn lao mà chị có thể xây đắp nên, nhưng hoàn toàn không phải ai cũng có thể có…

— Tôi hỏi, vì đời sống trí tuệ nghèo hơn người khác, tôi còn giữ được sự phong phú của đời sống cảm xúc.

— Ý nghĩa đó đúng về căn bản nhưng tôi muốn nói rõ hơn rằng thiên nhiên phong phú cho chị một tư chất sẽ nghèo đi, tuy cố nhiên là có yếu hơn, theo quy luật tự nhiên của mâu thuẫn. Nhưng chúng ta cứ nói chuyện trừu tượng làm gì, tôi cần gặp chị về một việc khẩn cấp, trực tiếp liên quan đến câu chuyện của chúng ta. Mơ-ven Ma-xơ…

Cô gái giật mình.

Ép-đa Nan khoác tay Tsa-ra và dẫn Tsa-ra vào một chỗ hõm ở mé bên của căn phòng, tại đó lớp gỗ bọc tường thấm đẫm màu hoàn toàn hợp với màu sắc sặc sỡ của những tấm kính xanh lơ và vàng óng trong những khung cửa sổ rộng xây cuốn.

— Tsa-ra thân mến, chị là bông hoa ưa ánh sáng của Trái đất, và đã được chuyển lên trồng ở hành tinh của ngôi sao đôi. Trên bầu trời có hai mặt trời: một mặt trời xanh và một mặt trời đỏ, bông hoa không biết hướng về mặt trời nào. Nhưng chị là con gái của mặt trời đỏ, vậy thì tại sao chị lại hướng về mặt trời xanh?

Bằng một cử chỉ trìu mến, Ép-đa Nan kéo cô gái vào vai mình, và Tsa-ra đột nhiên nép hẳn vào người chị. Âu yếm như một bà mẹ, người thầy thuốc tâm thần nổi tiếng vuốt mái tóc dày hơi cứng của cô gái và nghĩ rằng hàng nghìn năm giáo dục đã khiến cho niềm vui sướng cá nhân nhỏ nhặt được thay thế bằng niềm vui chung rộng lớn. Nhưng còn xa lắm mới chiến thắng được sự cô độc của tâm hồn, đặc biệt là một tâm hồn phức tạp chứa chan tình cảm và ấn tượng, được nuôi dưỡng bởi một cơ thể giàu sức sống như tâm hồn Tsa-ra.

Chị nói thành tiếng: — Mơ-ven Ma-xơ… chị có biết anh ấy đã gặp chuyện gì không?

— Cố nhiên cả hành tinh đều chê trách thí nghiệm không thành công của anh ấy.

— Còn chị nghĩ thế nào?

— Anh ấy có lý!

— Tôi cũng nghĩ thế. Vì vậy cần phải lôi anh ấy ra khỏi đảo Lãng-quên. Một tháng nữa sẽ có cuộc họp hàng năm của Hội đồng du hành vũ trụ. Hội đồng sẽ thảo luận lỗi lầm của anh ấy và chuyển quyền quyết định của mình cho ban kiểm tra Danh dự và Quyền lợi phê chuẩn, vì Ban kiểm tra chịu trách nhiệm theo dõi số phận từng người trên Trái đất. Tôi có lý do để hy vọng hình thức xử phạt sẽ nhẹ thôi, nhưng cần làm sao cho Mơ-ven Ma-xơ có mặt ở đây.

Không nên để cho một người có tình cảm mãnh liệt không kém gì tình cảm của chị lại phải ở lâu trên một hòn đảo, nhất là sống trong tình trạng cô độc!

— Tôi đâu phải là người phụ nữ cổ hủ đến nỗi xây dựng kế hoạch sống của mình phụ thuộc vào công việc của một người đàn ông, dù đó là người đàn ông mà tôi lựa chọn?

— Tsa-ra thân yêu của tôi, không nên thế. Tôi đã nhìn thấy hai người với nhau, và tôi biết chị là thế nào với anh ấy… cũng như anh ấy là thế nào với chị. Đừng trách anh ấy không gặp chị, lẩn tránh chị. Chị nên hiểu: một người giàu tình cảm không kém gì chị mà đến với người yêu của mình giữa lúc bản thân mình đang ở trong một trạng thái thảm hại, bị thất bại, bị đưa ra xét xử và bị trục xuất thì thật là khổ tâm biết chừng nào! Chị là người anh ấy yêu, đúng thế đấy, Tsa-ra ạ! Làm sao anh ấy có thể đến với chị, đến với một trong những tạo vật mỹ lệ của Thế giới Lớn!

— Tôi không nghĩ đến chuyện đó, chị Ép-đa ạ. Lúc này anh ấy đang mệt mỏi rã rời, liệu anh ấy có cần đến tôi hay không? Tôi e rằng anh ấy có lẽ không đạt được sự hứng khởi tinh thần lớn lao, lần này không phải là về lý trí mà về tình cảm… không đủ sức để đi đến sự sáng tạo của tình yêu, sự sáng tạo mà tôi cho rằng cả hai chúng tôi đều có đủ khả năng… khi đó anh ấy sẽ mất lòng tin vào bản thân một lần thứ hai nữa, mà xung khắc với cuộc sống thì anh ấy không thể chịu đựng nổi. Tôi cho rằng lúc này, tốt hơn hết là tôi nên ở hoang mạc A-ta-ca- ma.

— Tsa-ra, chị nghĩ đúng, nhưng chỉ đúng có một mặt mà thôi. Còn phải xét đến sự cô độc và tự buộc tội mình một cách thái quá của con người lỗi lạc và đầy nhiệt tình. Nhất là lúc này, người đó không còn chỗ dựa nào, khi đã xa lìa thế giới của chúng ta. Chính tôi muốn đi đến nơi ấy… Nhưng tôi còn có Ren Bô-dơ chưa biết sống chết ra sao, anh ấy là người bị thương nặng, nên có quyền được ưu tiên. Đa-rơ Ve-te được trao nhiệm vụ xây dựng vệ tinh mới, và đấy là sự giúp đỡ của anh ấy đối với Mơ-ven Ma-xơ. Tôi sẽ không lầm, nếu tôi nói dứt khoát với chị: hãy đến với Mơ-ven Ma-xơ mà đừng đòi hỏi ở anh ấy một điều gì cả, dù là ánh mắt âu yếm, đừng đòi hỏi một dự định nào về tương lai, đừng đòi hỏi tình yêu gì hết. Chỉ cần chị nâng đỡ anh ấy, gợi cho anh ấy nghĩ rằng anh ấy đã hành động như thế chưa chắc đã đúng, và như vậy chị sẽ làm cho anh ấy trở về với thế giới của chúng ta. Chị có đủ can đảm làm việc ấy, Tsa-ra ạ! Chị đi chứ?

Cô gái thở gấp, ngước đôi mắt ướt lệ, đầy vẻ cả tin ngây thơ lên nhìn Ép-đa Nan.

— Tôi đi ngay hôm nay.

Ép-đa Nan hôn Tsa-ra một cách thắm thiết.

— Thế là phải, cần làm nhanh lên. Tôi sẽ cùng đi với chị theo Đường xoáy ốc đến Tiểu-Á — Ren Bô-dơ nằm ở viện an dưỡng giải phẫu trên đảo Rô-đô-xơ, còn chị thì tôi sẽ thu xếp cho chị đi Đây-rơ-e-dơ Do-rơ, đến căn cứ máy bay y tế đi Úc và Tân-tây-lan. Tôi cảm thấy trước sự thích thú của người phi công được đưa diễn viên vũ Tsa-ra chứ không phải nhà sinh vật học Tsa-ra đến bất cứ địa điểm nào mà Tsa-ra muốn đến.

Người phụ trách đoàn tàu mời Ép-đa Nan và người bạn đường của chị vào Trạm điều khiển trung tâm. Một đường hành lang kín bằng silicon chạy trên nóc các toa xe khổng lồ.

Những người trực đi lại trong hành lang từ đầu này đến đầu kia của toa xe để theo dõi các khí cụ. Hai người phụ nữ lên cái thang xoắn ốc, đi qua hành lang trên cùng và vào một cabin lớn nhô hẳng ra phía trước mũi toa xe đầu. Trong cái khối bầu dục bằng kính ở độ cao bảy mét trên nền đường này có hai thợ máy ngồi trong những chiếc ghế bành. Cái chụp cao hình chóp của người máy điện tử lái xe ngăn cách hai người với nhau. Những màn ảnh dạng pa- ra-bôn của các máy truyền hình giúp họ có thể nhìn thấy tất cả những gì diễn ra ở hai bên và phía sau xe. Những tua ăng-ten của thiết bị báo trước rung rinh trong mái toa có nhiệm vụ báo trước sự xuất hiện vật lạ trên đường ở cách xa năm chục ki-lô-mét, tuy trường hợp đó chỉ có thể xảy ra trong hoàn cảnh ngẫu nhiên hoàn toàn đặc biệt.

Ép-đa Nan và Tsa-ra ngồi trên chiếc đi-văng ở thành sau của ca-bin, cao hơn chỗ ngồi của hai người thợ máy chừng nửa mét. Cả hai người phụ nữ đều bị thôi miên bởi con đường rộng lớn vùn vụt hay ngược chiều với họ. Con đường khổng lồ cắt ngang những dãy núi, băng qua những miền đất thấp trên những u cao đồ sộ, vượt ngang qua các vịnh và vũng biển trên những chiếc cầu thấp chìm sâu dưới nước. Với tốc độ hai trăm ki-lô-mét một giờ, rừng trồng trên sườn những hõm và u cực lớn biến thành những thảm liền nhau màu đỏ nhạt, màu đá khổng tước hay màu lục sẫm, tuỳ theo loại cây: thông, khuynh diệp, hay ô-liu. Ở hai bên cầu, làn biển yên tĩnh của quần đảo bắt đầu nổi sóng vì hơi gió của những toa xe rộng mười mét trong đoàn tàu đang xé không khí. Những dải sóng lớn chạy tản thành hình nan quạt, làm cho làn nước xanh trong tối hẳn đi.

Hai người phụ nữ ngồi im lặng, nhìn con đường, mỗi người mải mê với những ý nghĩ đầy âu lo của mình. Bốn giờ đã trôi qua như vậy. Rồi đến bốn giờ nữa họ ngồi trong những chiếc ghế bành mềm ở buồng khách của tầng hai giữa những hành khách khác, họ chia tay ở một ga gần vùng duyên hải phía Tây Tiểu-Á. Ép-đa Nan lên ô-tô điện đến cảng gần nhất, còn Tsa-ra tiếp tục theo con đường cũ đến ga Ta-vrơ Đông thuộc nhánh kinh tuyến đầu tiên. Sau hai giờ đi đường nữa, Tsa-ra đã ở trên một đồng bằng nóng rực, trong bầu không khí khô và nóng lung linh như khói. Tại đây, ở vùng ven hoang mạc Xi-ri trước kia, có căn cứ Đây-rơ- e-rơ Do-rơ, sân bay của những máy bay hình xoắn ốc nguy hiểm cho các vùng người ở.

Tsa-ra nhớ suốt đời những giờ khổ ải ở Đây-rơ-e-dơ Do-rơ trong khi chờ đợi chuyến bay sắp tới. Chị suy đi nghĩ lại mãi về lời lẽ và hành động của mình, cố hình dung ra cuộc gặp gỡ với Mơ-ven Ma-xơ, đặt kế hoạch tìm anh trên đảo Lãng-quên, nơi mà mọi vật đều biến mất trong những chuỗi ngày vô vị kế tiếp nhau.

Cuối cùng, ở phía dưới, đã nhìn thấy những bãi rộng mênh mông của các trạm nhiệt điện trong hoang mạc Nê-phut và Rup-en Ha-li: đây là những nhà máy điện khổng lồ biến đổi năng lượng mặt trời thành điện năng. Dưới những tấm màn bụi, trong bóng đêm, chúng dàn thành hàng đều đặn trên những đụn cát hình lưỡi liềm đã được san đều và làm cho chắc lại, trên những bình sơn nguyên bị xén cắt, sườn dốc nghiêng về phương Nam, trên những khe hẻm chằng chịt đã được lấp đầy. Công trình này là đài kỷ niệm cuộc đấu tranh vĩ đại của con người để chinh phục năng lượng. Nhờ sử dụng được các loại năng lượng mới P, Q và F, thời kỳ phải tiết kiệm ngặt nghèo đã qua lâu rồi. Những rừng động cơ dùng sức gió đứng sừng sững dọc bờ nam bán đảo A-ra-bi, đấy cũng là nguồn năng lượng dự trữ của vành đai dân cư phương Bắc. Gần như trong khoảnh khắc, máy bay vượt qua đường ranh giới bờ biển mờ mờ ở phía dưới và bay trên Ấn-độ-dương. Năm nghìn ki-lô-mét là khoảng cách không đáng kể đối với loại máy bay nhanh như thế. Chẳng mấy chốc, Tsa-ra Nan-đi đã ra khỏi máy bay, bước lò dò đôi chân đã yếu đi, và mọi người chúc chị mau chóng trở về.

Trưởng trạm điều khiển việc hạ cánh máy bay cho con gái lái chiếc tàu trượt nước nhỏ đưa Tsa-ra ra đảo Lãng-quên. Hai cô gái thực sự thích thú vì chiếc tàu lướt nhanh như gió trên những làn sóng vô cùng lớn của biển cả. Tàu đi thẳng tới bờ phía Đông của đảo Lãng-quên, đến cái vũng biển lớn có một trong những trạm y tế của Thế giới Lớn.

Những cây dừa nghiêng những tàu lá hình lông chim về phía những con sóng rì rào nhịp nhàng trên những bãi cát ngầm, chào mừng Tsa-ra đến đảo. Trạm y tế không có ai: tất cả các nhân viên đều vào sâu trong đảo để diệt những loại bọ đã phát hiện thấy một số loài gặm nhấm trong rừng.

Ở trạm có những chuồng ngựa, người ta nuôi ngựa để dùng ở những chỗ như đảo Lãng- quên hay ở những nhà an dưỡng, nơi không thể dùng máy bay hình đinh vít quá ồn ào hay không thể dùng ô-tô chạy điện vì không có đường. Tsa-ra nghỉ ngơi đã lại sức, chị thay áo và đi xem những thú vật đẹp và hiếm. Ở đây, chị gặp một phụ nữ đang khéo léo điều khiển những chiếc máy phân phát thức ăn và máy quét dọn. Tsa-ra giúp chị ta, và hai người nói chuyện. Chị hỏi về việc làm thế nào để tìm người trên đảo được dễ dàng hơn và nhanh chóng hơn. Chị ta khuyên Tsa-ra tham gia vào một trong những đội tảo thanh y tế: họ thường đi khắp đảo và thậm chí biết rõ nơi này hơn cả những người vẫn ở đây. Tsa-ra rất tán thành lời khuyên ấy.

Загрузка...